Truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh

Tản Viên Sơn Thánh còn gọi là Sơn Tinh là vị thần cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên), một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt (tứ bất tử). Các sự tích, truyền thuyết về Đức thánh Tản (đặc biệt là truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh), thể hiện khát vọng làm chủ thiên nhiên của người Việt, mở đất, dựng nước.

Trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là vị thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung.

di-tich-tan-vien-son-thanh

Thánh Tản Viên được coi là vị thánh được nhắc tới đầu tiên. Có lẽ đây là vị thánh liên quan tới truyền thuyết về việc bảo tồn, giữ gìn đất nước trong cuộc đấu tranh đối chọi với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm của dân tộc.

Truyện kể về xung đột mang màu sắc “tình ái” giữa hai vị thần tượng trưng cho hai thế lực đối chọi nhau: Thuỷ Tinh (Thần Nước), là sức mạnh tự nhiên, biểu hiện của thiên tai lũ lụt, bão tố … mà hàng năm nhân dân ta phải gánh chịu, nhất là cư dân lưu vực đồng bằng sông Hồng (mà Thăng Long là vùng chịu ảnh hưởng khá nặng nề). Còn Sơn Tinh (Thần Núi), còn gọi là Thánh Tản Viên, đại diện cho sức mạnh vật chất, ý chí, sự thông minh, lòng quả cảm và sự đoàn kết toàn dân, đã chống chọi kiên cường và chống chọi thành công với sức huỷ diệt tàn phá của mọi thiên tai địch hoạ.

Hiện có hai quan niệm và cách giải thích nguồn gốc xuất thân của Tản Viên:

1. Các học giả thời phong kiến cho Tản Viên là “hạo khí anh linh của trời đất sinh ra”, hoặc cho “là 1 trong 50 người con của Lạc Long Quân, Âu Cơ theo cha xuống biển”. Chàng “từ biển đi vào, qua cửa Thần Phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô, đến Phúc Lộc giang”.

Từ đấy, “nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình”, nên chàng “đã làm một con đường thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía Nam núi Tản Viên, tới động An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi”. Các tác giả Lịch triều Hiến chương (Phan Huy Chú) và Việt sử Thông giám cương mục… cũng đều có những quan niệm tương tự.

2. Trong khi đó theo quan niệm của dân gian, được thể hiện qua các bản thần thích thần phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực, xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ trong dân chúng.

Chàng tên thực là Nguyễn Tuấn, có tài “hô phong hoán vũ”, dũng cảm. Sơn Tinh được Hùng Vương kén làm rể, gả con gái Mỵ Nương. Sau đó, Thủy Tinh vì không được chọn, đã nổi giận đem binh đến đánh, xảy ra các cuộc chinh chiến trong nhiều năm trời. Kết cục, Thủy Tinh luôn là kẻ bại trận.

Múa lân trong ngày hội Tản Viên ở Đền Hạ thuộc Khu di tích lịch sử đền thờ Tản Viên Sơn Thánh
Múa lân trong ngày hội Tản Viên ở Đền Hạ thuộc Khu di tích lịch sử đền thờ Tản Viên Sơn Thánh

Truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh: 

Truyền thuyết thời Hùng Vương về Tản Viên Sơn Thánh, có rất nhiều, có thể kể đến: Tản Viên Sơn Thánh; Sơn Tinh Thủy Tinh; Tản Viên đón vợ; Trần Giới, Trần Hà; Ba anh em lốt rắn; Cao Sơn và Quý Minh; Đại Hải đánh Thục; An Dương Vương lập cột đá thề; Sơn Tinh gánh đất trị thủy;

Cuốn Ngọc phả trong đền Lăng Sương, ở xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ kể lại gốc tích ra đời, trưởng thành của thánh Sơn Tinh, tên thật là Nguyễn Tuấn. Thân phụ ngài là ông Nguyễn Cao Hành, thân mẫu là Đinh Thị Đen, vốn là những người tu nhân tích đức nhưng hiếm muộn con cái.

Trong một lần mẫu Đen (tên mà người dân trong vùng gọi thân mẫu sinh thành ra thánh Tản Viên) ra giếng gánh nước thì gặp con rồng vàng. Mẫu gánh nước về tắm thì đột nhiên mang thai. Người thường chỉ mang thai 9 tháng nhưng mẫu mang thai đúng 14 tháng mới sinh. Đến thai kỳ thì sinh được một con trai có tướng mạo khôi ngô nên đặt tên cho là Nguyễn Tuấn”.

Truyền thuyết kể lại rằng thân mẫu Nguyễn Tuấn thường ngồi trên phiến đá đó cúi xuống để lấy nước nên in dấu thành vết. Độ sâu của giếng chỉ khoảng 3m – 4m nhưng chưa bao giờ cạn nước, kể cả vào mùa khô. “Vào mùa hè khô hanh, ruộng đồng khắp nơi đều cạn nước nhưng giếng này vẫn đầy nước, nhìn trong vắt”, ông Tuất nói.

Khi Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi đã mồ côi cha, sau đó hai mẹ con chuyển sang nơi sinh nhai mới thuộc xóm Cốc ở núi Tản Viên. Cũng tại đây, chàng thanh niên Nguyễn Tuấn được thần núi Ma Thị Cao Sơn nhận làm con nuôi. Sau 3 năm sinh sống ở chân núi Tản, hai mẹ con lại trở về sống ở động Lăng Sương (đền Lăng Sương ngày nay).

Năm 12 tuổi, Nguyễn Tuấn ngày ngày vượt sông Đà sang núi Tản Viên để đốn củi về phụ giúp thân mẫu. Cứ mỗi khi quay trở lại núi vào ngày hôm sau, chàng lại thấy những cây mình chặt hôm trước mọc trở lại. Thấy lạ, chàng mới quyết định núp để tìm hiểu. Nhờ đó mà Nguyễn Tuấn gặp được ông Tử Vi thần tướng Bạch Tuyết – chính là người đã làm cho các cây gỗ bị chặt mọc lại. Thấy chàng trai trẻ Nguyễn Tuấn có tướng mạo khôi ngô tuấn tú, Tử Vi thần tướng đã truyền lại cho chàng cây gậy đầu sinh đầu tử. Trên đường qua sông về nhà, Nguyễn Tuấn nhìn thấy con trai vua Thủy Tề bị tử nạn, chàng đã sử dụng cây gậy thần, cứu mạng con vua Thủy Tề.

Cảm kích ơn cứu mạng, vua Thủy Tề dâng vàng bạc châu báu để trả ơn nhưng Nguyễn Tuấn đều từ chối. Khi nhìn thấy cuốn sách ước – một bảo vật của vua Thủy Tề, Nguyễn Tuấn ngỏ ý xin ban tặng nhưng vua Thủy Tề từ chối vì đó là bảo bối quý hiếm.

Mặc dù nhà vua từ chối nhưng người con trai quyết trả ơn cho Nguyễn Tuấn, bèn đánh cắp cuốn sách để tặng cho vị ân nhân. Vua Thủy Tề biết được, liền dâng nước và quân đội lên để đòi lại sách quý. Tuy nhiên, có trong tay cuốn sách bảo bối, Nguyễn Tuấn đã đẩy lùi đạo quân sóng nước.

Người vợ của Nguyễn Tuấn sau này là con gái Hùng Vương. Khi lấy được công chúa, Nguyễn Tuấn được vua cha truyền lại ngôi báu. Sau đó, Nguyễn Tuấn đã nhường lại ngôi cho Thục Phán An Dương Vương, từ đó nước Âu Lạc ra đời.

Với công lao đẩy lùi thủy hạn, an dân hộ quốc, sau này, nhân dân địa phương đã lập đàn thờ và tôn ngài thành Tản Viên Sơn Thánh. Sơn Tinh cũng là nhân vật đầu tiên trong Tứ Bất Tử của nước ta.

Những tích bút ghi  cho thấy một giả thiết khác về nguồn gốc xuất thân của Đức thánh Tản Viên (Sơn Tinh), nhiều tình tiết có phần khác hẳn với truyền thuyết Sơn Tinh vốn đã lưu truyền trong dân gian từ trước đến nay.

Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh:

Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, kể rằng: Vua Hùng thứ 18 sinh được 20 người con trai và 6 nàng con gái lần lượt qua đời, chỉ còn lại Tiên Dung công chúa và Ngọc Hoa công chúa. Tiên Dung đã lấy Chử Đồng Tử còn Ngọc Hoa chưa lấy ai. Ngọc Hoa xinh đẹp da ngà mặt ngọc, xinh đẹp tuyệt vời, được vua cha rất yêu quí. Vua Hùng lập lầu kén rể. Sơn Tinh và Thủy Tinh nghe tin, cùng tìm đến thi tài. Sơn Tinh, Thủy Tinh đều có tài nghệ hơn người, hình dung tuấn tú.

Trước lầu cao có vua Hùng và Ngọc Hoa ngự. Thủy Tinh thi trước, ra oai gọi gió, hô mưa, chợt thấy mưa rơi sầm sập, sấm nổ vang ầm ĩ, trời đất tối tăm, bốn bề nước réo, cây nghiêng núi ngả, muôn loài đều khiếp sợ, người và muông thú vội tìm chỗ trú ẩn cho kín, ai nấy nín hơi ngậm miệng không dám ló ra. Đến lượt Sơn Tinh, chàng giơ cao chiếc gậy thần, lập tức sét câm, mưa trốn, trời trong mây sáng, cây cỏ lại xanh tươi, chim hót hoa cười, rõ ra cảnh tượng mùa xuân hòa vui ấm áp.

Vua Hùng thấy cả hai chàng trai đều có tài lạ, không biết gả Ngọc Hoa cho ai, trong dạ phân vân, mới thách đồ dẫn cưới phải có “voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao” và hẹn rằng ngày mai ai đem đồ lễ tới trước thì sẽ được đón công chúa về làm vợ. Cả hai chàng Sơn Tinh và Thủy Tinh vái tạ nhà vua, vội vã ra về lo sửa soạn đồ sính lễ.

Sơn Tinh, nhờ có cuốn sách ước vua Thủy Tề tặng, nên tuy ở ngay tại thành Phong Châu, nhưng chỉ việc mở sách ước ra là có đủ các vật quí, lạ của núi rừng sông bể, đủ cả “voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao” như vua Hùng đã thách. Trời chưa sáng, Sơn Tinh sợ trùng trình Thủy Tinh kéo đến, mới giả tiếng gà gáy. Tức thì, gà khắp vùng gáy theo inh ỏi. Cửa thành mở rộng.

Sơn Tinh vào chầu vua Hùng, tiến dâng lễ vật và được vua Hùng cho đón Ngọc Hoa về nhà trai. Đám rước dâu vừa tới làng Trẹo (nay là thôn Triệu Phú, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, gần Đền Hùng) thì gặp Thủy Tinh đang đốc thúc quân gia khiêng các lễ vật tới. Thấy Sơn Tinh đã đón Ngọc Hoa, Thủy Tinh nổi giận đùng đùng, vứt tung lễ vật rơi vãi khắp nơi, rồi thét quân xông tới cướp Ngọc Hoa. Hai bên giao chiến một trận dữ dội.

Lúc đó trời đất bỗng tối sầm, chỉ thấy ánh chớp sáng lòe, tiếng sét đánh inh tai, tiếng hò reo vang dội  một vùng rộng lớn. Trong đám loạn quân, Ngọc Hoa bị lạc, không thấy Sơn Tinh đâu, mới cất tiếng hú gọi chồng (hiện nay, thôn Triệu Phú có tục cầu tiếng hú, để nhắc lại tiếng hú của Ngọc Hoa gọi chồng thủa nào). Trong lúc đang ra sức chống đỡ  Thủy Tinh, nghe tiếng hú của vợ, Sơn Tinh vội đi tìm Ngọc Hoa. Tới chiều tối mới mở được đường máu, đưa Ngọc Hoa về núi Tản.

Không cam tâm để mất Ngọc Hoa, Thủy Tinh liền nổi sóng dữ thét quân đuổi theo. Sơn Tinh đưa vợ lên tít ngọn núi Tản. Bấy giờ sóng vỗ nghiêng trời, nước dâng ngập đất, các loài thủy tộc múa may nhảy nhót theo nước dâng tiến lên. Nước vỗ đồng bãi tràn rừng quật núi, sông nước réo lên ầm ầm, mưa đổ như trút, chớp lòe sấm động đất như nghiêng, trời như đổ, bốn bế nước đục mênh mông. Sơn Tinh ra sức chống cự, cùng với nhân dân và các bộ hạ đắp đất, lao gỗ để chặn nước. Nước dâng tới đâu, Sơn Tinh lại hóa phép dâng đất lên cao hơn.

Thủy Tinh thấy đánh mãi không được, nổi giận mở một con đường nước xoáy thẳng vào chân núi Tản (dấu tích còn lại đến ngày nay là ngòi Lạt ở địa phận huyện Thanh Sơn, chảy giữa hai xã Tu Vũ huyện Thanh Thủy, Lương Nha huyện Thanh Sơn, hướng chảy thẳng vào núi Chẹ trước núi Tản, cách núi bởi con sông Đà). Sơn Tinh vội gánh đá đổ thành một hòn núi lớn phía trước núi Tản chặn đứng mũi nước xoáy của Thủy Tinh (dấu tích hiện còn là hòn Núi Chẹ là một dãy núi đá vôi đứng bên bờ sông, ngay trước núi Tản, như một bức bình phong che cho núi Tản).

Nước ở thượng nguồn lại sầm sập lao về. Sơn Tinh thả lưới sắt, giăng chông đá ngang sông để đánh bắt quân Thủy Tinh (dấu tích nay là bãi Đá Chông, một bãi đá dựng lởm chởm dăng ngang dòng sông Đà, thẳng tới xã Đoan Hạ, huyện Thanh Thủy). Hai em của Sơn Tinh là Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng là Tả hữu lâm thần hai bên bờ sông Đà hô ném các loại cây đắng có chất độc như cây mền dẻ, cây thàn mát xuống nước. Quân Thủy Tinh bị trúng độc, xác nổi đặc mặt sông, Thủy Tinh thua to, vội vã rút quân về. Từ đấy, cứ hàng năm, vào tháng sáu, tháng bẩy âm lịch, nước lại dâng to ở các sông gây lụt lũ. Nhân dân nói đó là Thủy Tinh nhớ mối thù cũ, dâng nước đánh Sơn Tinh. (Tổng tập Văn nghệ dân gian đất Tổ, Tập 1, Sở Văn hóa – Thông tin – Thể thao Phú Thọ và Hội Văn nghệ dân gia Phú Thọ, năm 2000, tr 119-122).

Các truyền thuyết khác: 

Truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh có nhiều dị bản, trong đó có một số dị bản sau: Động Lăng Xương có hai anh em Nguyễn Cao Hành và Nguyễn Cao Ban, tuổi đã cao mà chưa có con. Người anh là Nguyễn Cao Hành có nuôi một  người cháu ruột của vợ mình tên là Đinh Thị Điên và ăn nằm với người cháu này. Đinh Thị Điên có mang, đẻ được một người con trai, đặt tên là Tuấn – Nguyễn Tuấn. Vợ chồng người em Nguyễn Cao Ban cũng sinh được 2 người con trai, đặt tên là Hiển – Nguyễn Hiển và Sùng – Nguyễn Sùng. Trong thời gian mang thai những khi Đinh Thị Điên đi làm đồng thường vẫn có mây lớn che đầu. Một hôm bà đang cấy lúa, chợt thấy trong người cảm động, biết là sắp sinh nở, bỏ các cây mạ, tìm giếng rửa chân tay. Rửa xong, về tới nhà thì đẻ.

Từ lúc cấy cho tới lúc đẻ vẫn có mây lành che đầu. Hiển và Sùng 12 tuổi thì cả cha lẫn mẹ mất. Người cậu ruột đưa cả hai anh em sang chân núi Tản ở với người đàn bà hủi họ Bùi, có họ mà không có tên. Vào năm Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi, thì bố mất, mẹ yếu. Tuấn sang ở với bà họ Bùi. Ba năm sau, Nguyễn Tuấn quay về ở với mẹ, đổi tên là Tùng – Nguyễn Tùng. Một hôm Nguyễn Tùng nghĩ bụng hai mẹ con ở hai nơi khó chăm sóc, mới đưa mẹ đẻ sang núi Tản cùng ở với mẹ nuôi họ Bùi kia. Từ đấy, ba anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng cùng ở với hai mẹ, sum họp một nhà ở chân núi Tản. Một năm sau, bà Đinh Thị Điên qua đời.

Một dị bản khác, kể rằng: Hùng Duệ Vương tuổi già mà không có con nối dõi. Thục Phán là chủ đạo bộ Ai Lao, vốn người kiêu dũng, cho rằng vận nhà Hùng đã hết, sợ rằng ngôi vua sẽ về tay Sơn Tinh là con rể vua Hùng, mới nổi quân về đánh vua Hùng. Quân Thục chia làm 5 đạo thủy bộ cùng tiến, thế mạnh như vũ bão, các đồn lũy của vua Hùng không chống cự nổi. Hùng Duệ Vương vô cùng lo sợ, truyền gọi con rể Tản Viên về triều, hỏi mưu kế, rồi trao quyền đánh dẹp quân Thục cho Tản Viên.

Tản Viên Sơn Thánh và hai em là Tả hữu lâm thần Nguyễn Hiển, Nguyễn Sùng (truyền thuyết ở xã Thanh Uyên, huyện Tam Nông, kể là Cao Sơn và Quý Minh – người trang Thanh Uyên, là hai anh em kết nghĩa với Tản Viên, đã chiêu mộ được hơn hai trăm người về giúp Tản Viên đánh Thục), đưa hơn ba nghìn người vùng sông Đà về nhận mệnh vua, rồi tiến quân qua sông Thao, đóng trại ở các làng Cổ Tiết và Quang Húc (nay thuộc huyện Tam Nông). Tản Viên xin nhà vua ban chiếu cầu người tài giỏi ra giúp nước. Vua Hùng nghe theo. Người người kéo về Phong Châu, theo Tản Viên Sơn Thánh đánh Thục nhiều lần, thu được thắng lợi to.

Sách Đại Nam nhất thống chí, thời Nguyễn, ghi chép lai lịch Đền thần Tản Viên, như sau: “Thần có ba vị: một vị tên là Nguyễn Hương, một vị tên là Nguyễn Tuấn, một vị tên là Nguyễn Lang. Có thuyết nói: thần tên là Hương Lang con Lạc Long Quân. Đời Đường Nghiêu nước lớn ngập cả núi gò, Hương Lang có phép tiên, trừ được nạn lụt, sau lại đánh tan được quân nhà Tần, bèn đi khắp nơi xem xét danh thắng đến núi Tản Viên, dựng cung điện để ở, sau người ta lập đền thờ. Sơn thần rất thiêng, thường có hạc múa, voi quì, rồng chầu, hổ phục. Cao Biền nhà Đường có ý muốn yểm, nhưng không yểm được, đời Thái Ninh Đường Ý Tông ban cho tiền của để sửa lại đền, nay đền vẫn còn, các triều đều có phong tặng.

Xét Lĩnh Nam trích quái chép rằng: Hùng Vương có con gái là Mỵ Nương, muốn tìm người lứa đôi, một hôm có hai người cùng đến cầu hôn, Sơn Tinh và Thủy Tinh. Hùng Vương hẹn với hai người rằng ai đưa sính lễ đến trước thì được lấy Mỵ Nương. Ngày hôm sau, Sơn Tinh đem đủ lễ vật đến trước, đón Mỵ Nương về núi Tản Viên. Thủy Tinh đến sau, bèn đem các loài thủy tộc đuổi theo. Sơn Tinh liền hóa phép thần, Thủy Tinh không sao xâm phạm được. Tương truyền Sơn Tinh tức là Nguyễn Tuấn. Lời phụ lục trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi nói: Thần núi Tản Viên linh thiêng lạ thường, vua Lý Nhân Tông sai thợ dựng đền ở ngọn thứ nhất trên núi, có lầu 12 tầng”. (Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, T4, 1997, tr 237- 238).

Tuy có nhiều ghi chép khác nhau về lai lịch của Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh như nêu ở trên, song xuyên suốt trong các bản ghi chép ấy là khẳng định vị thần chủ núi Ba Vì – Sơn Tinh. Tản Viên Sơn Thánh ấy chính là hóa thân của một người họ Nguyễn, tên là Tuấn, sinh ra ở động Lăng Xương xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, vào đời Hùng Vương thứ 18.

Nguyễn Tuấn có cha, có mẹ, có vợ là Ngọc Hoa – công chúa của Hùng Vương thứ 18. Sơn Tinh – Tản Viên Sơn Thánh có vị trí cao trong tâm thức người Việt  cổ, có ảnh hưởng rất lớn với triều đình Hùng Vương thứ 18, với xã hội Văn Lang thủa sơ khai. Nguyễn Tuấn – vừa là anh hùng văn hóa, vị thần trị thủy chiến thắng lũ lụt, thần tổ dạy cho dân nhiều nghề; vừa là thủ lĩnh quân sự kiệt xuất, vị thần chiến tranh chống Thục, lại cũng là một nhà chính trị khôn ngoan nhìn xa trông rộng , vị thần khuyên vua Hùng nhường ngôi cho vua Thục và lên núi “dưỡng nhàn”.

Thờ cúng:

Đã có nhiều đền thờ nhân vật Sơn Tinh được người dân ở một vùng lập nên, như đền Và (Sơn Tây, Hà Nội), các ngôi đền trên núi Ba Vì (Hà Nội). Tuy nhiên, những ngôi đền này chỉ là nơi được lập nên để thờ vọng chứ không phải là đất phát tích của Tản Viên Sơn (Sơn Tinh). Trong cuốn Ngọc phả ghi rõ, ngôi đền có tên là Lăng Sương, ở xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ chính là nơi đầu tiên thờ thánh Tản Viên. Đền Lăng Sương được xây dựng từ năm 1011, đời nhà Lý. Theo tài liệu còn được lưu giữ tại đây thì, đền được dựng lên trên nền đất cũ nơi thánh Sơn Tinh sinh ra và lớn lên. Di tích đền Lăng Sương là nơi hiếm hoi còn lưu lại những giải thích cặn kẽ nhất về Đức thánh Tản Viên.

Hàng năm, hội đền Lăng Sương diễn ra từ ngày 14 – 16 tháng Giêng âm lịch, trong đó ngày 15 là ngày chính lễ. Trong 3 ngày này, hội đền đã thu hút hàng trăm lượt du khách đến tham gia và bái lễ. Đền Lăng Sương được coi là một điểm đến tâm linh quý báu của đất tổ Hùng Vương trong hành trình tìm về cội nguồn dân tộc.

Tại các di tích thờ Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh trên cả một vùng rộng lớn quanh dãy núi Ba Vì, ngã ba sông Hồng, sông Đà thuộc địa phận các tỉnh Phú Thọ, Hà Tây, Hòa Bình, hàng năm nhân dân đều tổ chức lễ hội. Tiêu biểu phải kể đến một số lễ hội, như:

– Hội đền Và: tổ chức lễ hội lớn vào ngày Rằm tháng giêng, là hội về Thánh Tản lớn nhất, nức tiếng Xứ Đoài. Vào năm đại hội, các làng có liên quan đến Thánh Tản và Đền Và (có 8 làng: Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trại, Dạm Trại (xã Trung Hưng), Phù Sa, Phú Nhi (xã Viên Sơn), và làng Di Bình (xã Vĩnh Thịnh – huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc) đều tập trung về đền Và. Hội bắt đầu từ ngày 13 đến hết 15 tháng giêng, với đám rước lớn ngày 14. Ngoài hội Xuân này, tại Đền Và còn có hội Thu vào ngày 14 tháng 9 âm lịch, tiêu điểm là hội đả ngư / đánh bắt cá cầu may.

– Hội đền Măng Sơn (ở xã Sơn Đông, Hà Tây cũ): hàng năm mở hội vào ngày 6 tháng Giêng để tưởng niệm đức Thánh Tản đã dạy dân làng nghề săn bắn. Hội được tổ chức dưới hình thức té và rước nước.

– Hội Dô ở Liệp Tuyết (Quốc Oai – Hà Tây cũ) cũng tưởng niệm Thánh Tản vào ngày 10 tháng giêng.

– Lễ hội làng Khê Thượng (xã Sơn Đà, huyện Ba Vì) hàng năm mở hội Thánh Tản vào ngày mồng 3 đến 7 tháng giêng (còn gọi là tục Rước chúa trai – rước Thánh Tản sang sông để chúc tết bố vợ rồi mới quay về ăn tết với dân làng. Trong lúc Khê Thượng mở hội Rước chúa Trai thì đồng thời làng Vi, làng Trẹo (huyện Phù Ninh- Phú Thọ) cũng mở hội Rước chúa Gái – tức nàng Ngọc Hoa công chúa, dựa theo truyền thuyết Ngọc Hoa về thăm  cha lâu ngày không trở lại nên Tản Viên phải sang đón và được hai làng Vi, Trẹo tôn kính, giúp đỡ.

Sự thờ phụng Đức Thánh Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh trên đây bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ thần núi chủ cộng với tục thờ người có công với dân với nước. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta một lòng tôn kính, ngưỡng mộ Đức Thánh Nguyễn Tuấn – Thánh Tản, bởi họ tìm thấy ở Ngài phẩm chất và truyền thống tốt đẹp của dân tộc và quê hương mình. Đức Thánh Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh trở nên Bất Tử trong đời sống văn hóa – tâm linh của người Việt cổ, được di dưỡng qua năm tháng, ngày càng tỏa sáng trong cuộc sống hôm nay.

Để lại một trả lời

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố.